Trong bài viết trước chúng ta đã tìm hiểu qua một số ảnh số yếu tố: Thứ tự in chồng màu, Các yếu tố quang học,… Tiếp tục ở bài viết này sẽ đề cập thêm một số yếu tố về sự truyền mực, sự gia tăng tầng thứ … những yếu tố cụ thể để bạn đọc quan tâm và chú ý hơn đến chất lượng phục chế màu trong quá trình in nhé!
5. Sự truyền mực
Sự truyền mực hay trapping nghĩa là chuyển một lớp mực lên một lớp đã được in trước đó. Tỉ lệ truyền mực là tỉ lệ giữa khả năng mực phủ lên được trên một lớp mực in, ví dụ sự truyền mực 80% nghĩa là độ dày lớp mực của mực in thứ hai trên lớp mực in đầu là 80% so với độ dày lớp mực thứ hai trên một bề mặt giấy chưa in.
Các từ như ướt chồng ướt và ướt chồng khô nói đến việc lớp mực thứ hai chồng lên lớp mực trước đó còn ướt hay đã khô. Trong in một màu người ta in ướt chồng khô trong in 4 màu là ướt chồng ướt và in 2 màu là ướt chồng khô lẫn ướt chồng ướt.
== > > Đọc thêm: TRAPPING: BA THUỘC TÍNH CỦA TRAPPING.
Trong các điều kiện thông thường, việc truyền mực không đủ thường xảy ra. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc truyền mực bao gồm:
- Độ tách dính của mực (độ sệt): Để tạo điều kiện dễ dàng cho việc chuyển một lớp mực này lên một lớp mực này lên một lớp mực khác được in trước đó thì độ sệt của mực đang được in nên thấp hơn độ sệt của các loại mực đã in trước. Nếu như độ sệt của lớp mực thứ hai cao hơn lớp mực thứ nhất thì có thể xảy ra hiện tượng mực bị truyền ngược, tức là một ít mực in đầu tiên có thể bị mực in lần hai kéo ra khỏi giấy và truyền ngược về máng mực của nó. Ví dụ khi in màu Magenta có độ sệt cao lên trên màu Vàng có độ sệt thấp hơn thì có nhiều khả năng màu Vàng có độ sệt thấp hơn thì có nhiều khả năng màu Vàng bị màu đỏ lột ra và truyền ngược về máng mực màu đỏ khiến nó ngả sang màu cam.

Thử độ tách dính bằng tay
- Độ dày lớp mực: Nếu độ dày của lớp mực in đầu tiên cao hơn nhiều so với độ dày lớp mực in lần hai thì có thể dẫn đến hiện tượng truyền mực không đủ. Giả sử như một bộ mực có độ tách dính giảm dần theo thứ tự in đang được sử dụng thì độ dày lớp mực của tất cả các màu nên bằng màu. Để truyền mực tốt nhất, độ dày lớp mực nên gia tăng một ít từ đơn vị 1 đến đơn vị 4, đồng thời độ tách dính của các lớp mực in sau nên giảm tương ứng.
- Nhiệt độ mực: Sự gia tăng nhiệt độ làm giảm độ tách dính của một loại mực do đó tác động đến khả năng truyền mực của nó. Tất cả các loại mực nên được giữ ở cùng một nhiệt độ.
- Thời gian giữa các lần in: Thời gian ngưng giữa các lần in đầu và lần thứ hai càng dài bao nhiêu, thì càng có nhiều thời gian cho lớp mực đầu tiên khô bấy nhiêu. Độ tách dính của lớp mực in sẽ bắt đầu tăng khi nó bắt đầu khô. Sự gia tăng độ tách đính tạo điều kiện cho sự truyền mực của các màu sau. Sấy khô hoặc sấy một phần lớp mực đầu tiên giữa các lần in cũng giúp cải thiện việc truyền mực. Nếu thời gian giữa những lần in trôi qua quá lâu (ví dụ như khi một ấn phẩm 4 màu đang được in trên một máy in một màu) thì những vấn đề về truyền mực khô sẽ xảy ra. Khi đó nhiều chất phụ gia trong loại mực đầu tiên (ví dụ như các chất sáp) có thể chuyển lên bề mặt in và đóng vai trò như một rào cản đối với loại thực thứ hai.
- Cân bằng mực – nước: Trong in offset, lượng nước làm ẩm có thể ảnh hưởng đến độ tách dính mực và sau đó là sự truyền mực. Nếu có quá nhiều nước thì độ tách dính của mực sẽ giảm. Nếu nước cho vào không đủ thì độ tích đỉnh của mực sẽ tăng (trong các loại mực in, lượng nước chiếm khoảng 40%). Việc duy trì sự cân bằng mực – nước chính xác cho tất cả các màu là rất quan trọng giúp tránh được hiện tượng bông tuyết và cặn dơ trong dung dịch máng nước.
- Độ hấp thụ của giấy: Bề mặt in càng thấm hút bao nhiêu thì sự thâm nhập của chất dẫn mực vào bề mặt in càng nhanh bấy nhiêu. Việc này đã gây nên một sự gia tăng về độ tách tính của lớp mực tạo điều kiện cho việc truyền mực của các loại mực kế tiếp.
- Độ phủ mực trên khuôn in: Khi tất cả các yếu tố khác không đổi thì mực trên khuôn in với độ phủ mực thấp thường có khuynh hướng bị tăng độ tách dính. Hiện tượng này được giải thích như sau: khi in với khuôn in cán ít mực thì mực trên các lô mực sẽ chuyển xuống khuôn chậm hơn khi in với các khuôn đòi hỏi độ phủ mực lớn. Mực càng nằm lâu trên các lô mực thì sự bốc hơi hay polymer hóa chất dẫn càng nhiều nên khi mực xuống đến bản thì độ tách dính cao hơn. Để tránh vấn đề này khi in trên các khuôn in cần độ phủ mực thấp ta nên dùng các loại mực có độ tách dính thấp. Ngược lại, các khuôn in Có các vùng hình ảnh đòi hỏi độ phủ mực lớn thì phải có lực tách dính mực từ giấy cao hơn các khuôn in yêu cầu độ phủ mực thấp.
- Đo sự truyền mực. Phương pháp đo sự truyền mực tiện lợi nhất là đo mật độ của lớp mực in đầu tiên, mật độ của lớp mực thứ hai và mật độ tại nơi 2 màu in chồng lên nhau bằng kính lọc dành cho màu của lớp mực in sau. Ví dụ, nếu magenta là lớp mực xuống lần hai thì các chỉ số được lấy qua kính lọc Xanh lục. Máy đo mật độ được cân chỉnh về zero trên bề mặt tờ in trước khi đo. Tỉ lệ truyền mực được tính theo phương trình Preucil:
Tỉ lệ truyền mực thực tế = 100% (Dop–D1)/ D2 |
Trong đó D1 là mật độ của lớp lực đầu tiên, D2 là mật độ của lớp mực thứ hai và Dop là mật độ tại nơi 2 màu chồng lên nhau.
Phương pháp đánh giá sự truyền mực bằng mật độ kể không đưa ra các số đo chính xác về độ dày lớp mực. Điều này xảy ra do ảnh hưởng của các yếu tố sau: độ bóng và phản xạ của bể mặt, phản xạ nội tại đa phương, độ đục của lớp mực thứ hai, sự hồi chuyển của các lớp mực và độ cảm nhận phổ của máy đo mật độ. Đặc biệt là việc sử dụng các kính lọc băng tần hẹp 540 với các kính lọc băng tần rộng trong các máy đo mật độ sẽ ảnh hưởng đến các tính toán về sự truyền mực. Một sự truyền mực 100% thường dao động giữa 95% và 105% hoặc trong vài trường hợp còn nằm ngoài những giới hạn này.
Do ảnh hưởng của độ dày lớp mực nên việc truyền mực tối ưu có thể phụ thuộc vào một ấn phẩm nhất định. Trong thực tế, đạt được sự truyền mực 100% là bình thường nhưng các giá trị có thể chấp nhận được về mặt thương mại nằm trong khoảng từ 75 đến 90% ngày càng quen thuộc khi in ướt chồng ướt. Hơn nữa, tính ổn định của sự truyền mực quan trọng hơn việc đạt được một giá trị tuyệt đối nào đó.
Lục giác màu GATF là một biểu đồ tốt để tìm hiểu về những thay đổi sự truyền mực. Mật độ của các lớp mực in chồng lên nhau được vẽ trên biểu đồ. Sự khác biệt giữa tờ in thử và thật thường được so sánh trên loại biểu đồ này.
Để đạt được sự truyền mực tốt người ta thường khuyến cáo nên. dùng các loại mực có độ sệt giảm dần. Nghĩa là loại mực in đầu có thể có độ sệt cao nhất mà không bị bóc giấy, các loại mực sau đó có một độ sệt thấp hơn khoảng hai điểm. Ví dụ loại mực xuống đầu tiên có độ sệt là 18 và các loại mực sau có giá trị lần lượt là 16, 14 và 12.
6. Sự gia tăng tầng thứ và các yếu tố có liên quan
Để truyền mực sang bề mặt in cần phải dùng một áp lực vì mực là một chất lỏng nên áp lực này không chỉ nén mực vào bề mặt in mà còn là làm cho nó lan ra các phía. Do cần áp lực để truyền mực nên mực cũng bị phân tán gây nên sự gia tăng tầng thứ.

Trạng thái của điểm tram qua các công đoạn
Sự thay đổi kích thước điểm tram dẫn đến sự gia tăng tầng thứ

Sự biến dạng điểm tram: đúp nét
+ Sự gia tăng tầng thứ: Là một phần của sự biến dạng các hạt tram. Các dạng khác là kéo dịch và đúp nét. Kéo dịch là sự biến dạng có định hướng của điểm tram, một điểm tram tròn trên bản kẽm có dạng gần giống như hình bầu dục khi truyền lên giấy. Đúp nét là hiện tượng khi in hạt tram sẽ có một bóng của nó nằm lệch một bên và nhạt hơn nó.
Mặc dù có thể loại bỏ kéo dịch và đúp nét nhưng ở mức độ nào đó nhưng sự gia tăng tầng thứ luôn xuất hiện.
Bảng liệt kê dưới đây cho thấy các yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sự biến dạng điểm tram:
+ Độ dày lớp mực: lớp mực càng dày khi sự gia tăng tầng thứ càng nhiều.
+ Áp lực in: Áp lực in càng lớn thì sự gia tăng tầng thứ càng nhiều, áp lực có thể điều chỉnh bằng nhiều cách như lót lại kẽm và tấm cao su.
+ Tấm cao su: Loại cao su chịu nén làm biến dạng điểm tram ít hơn những tấm cao su thường và tạo ra sự gia tăng tầng thứ ít hơn.
+ Sự cân bằng mực – nước: Trong in offset, cấp nước nhiều quá làm cho mực trở nên nhiễm nước. Hiện tượng này cũng làm cho gia tăng tầng thứ nhiều hơn.
+ Độ căng của bản kẽm và cao su: Nếu độ căng không đủ thì đúp nét có thể xẩy ra.
+ Tốc độ in: Tốc độ in tăng có khuynh hướng làm giảm sự gia tăng tầng thứ nếu máy in đang ở trong điều kiện tốt và có thể điều chỉnh được.
+ Các yếu tố về giấy: Các loại giấy càng mịn, tráng phấn càng nhiều cho thấy gia tăng tầng thứ càng ít. “Các yếu tố về mực: Các loại mực có độ tách dính càng cao và nồng độ sắc tố càng cao thì gia tăng tầng thứ càng ít.
Các yếu tố thích hợp với các quy trình được liệt kê dưới đây:
+ In ống đồng: Sự biến dạng điểm tram trong in ống đồng giống như sự lan trải điểm tram. Sự lan trải chủ yếu là do hoạt động mao dẫn của giấy. Dung lượng của ổ chứa mực càng lớn, độ dẻo của mực càng thấp thì sự lan trải điểm tram càng để xảy ra.
+ In flexo: Sự gia tăng tầng thứ trong in flexo gồm các yếu tố của in ống đồng và in offset. Ngoài ra lưới điểm trên trục anilox càng thô thì sự gia tăng tầng thứ càng nhiều. Tương tự, góc tiếp xúc lưỡi dao gạt thấp hơn sẽ làm gia tăng tầng thứ cao hơn. Những yếu tố khác làm tăng tầng thứ bao gồm các lưỡi gạt mực dày hơn và các trục lăn truyền mực bằng cao su mềm hơn.
+ In lụa: Những yếu tố gia tăng tầng thứ trong in lụa là các yếu tố chỉ có liên quan đến quy trình này mà thôi. Lưới lụa dày hơn và áp lực dao gạt cao su có khuynh hướng làm tăng tầng thứ. Các dao gạt bằng cao su mềm hơn, góc gạt mực và tốc độ in thấp hơn, độ dẻo của mực thấp hơn sẽ làm tăng tầng thứ. Nếu đầu của dao gạt cao su làm tròn thay vì sắc và nếu độ căng của lưới lụa hay độ phân giải tram thấp thì dễ làm tăng tầng thứ.
Xác định độ biến dạng điểm tram qua: các ô hình sao (ô kiểm tra hình sao của thang GAFT) – từ đây ta có thể thấy rõ nguyên nhân gây nên sự biến dạng điểm tram, đó có thể là gia tăng tầng thứ, kéo dịch hoặc đúp nét. Một phương pháp khác nữa là thông qua việc sử dụng các số đo mật độ. Tiêu biểu là mật độ đo từ các giá trị tông nguyên và tông tram của một bản in, điện tích điểm tra được tính bằng cách dùng phương trình Muray – Davies hoặc phương trình Yule – Nielsen là hệ quả của phương trình này. Một số máy đo mật độ được lập trình sẵn các phương trình này để dễ tính diện tích điểm tram.
Một vấn đề về biến dạng điểm tram nữa là độ gai (graininess) nó xuất hiện khi sự gia tăng tầng thứ khá cao. Các dải tram không đều có liên quan nhiều đến độ biến dạng của chi tiết ảnh chứ không phải giá trị tông.

Minh họa các vi ảnh từ trái sang phải độ gia tăng dần
Nói chung, giảm thiểu độ biến dạng điểm tram là cần thiết, nhưng một số phương pháp được sử dụng để giảm độ biến dạng điểm tram có thể gây ra những hệ quả không mong muốn. Ví dụ, nếu giảm độ dày lớp mực thì sẽ giảm luôn độ biến dạng điểm tram và hệ quả không đáng có là mật độ màu tối đa cũng bị giảm. Nếu bổ sung vào mục các sắc tố để có thể đạt được mật độ cao với một lớp mực mỏng thì các thuộc tính truyền mực có thể bị ảnh hưởng đến mức làm cho mực không thể sử dụng được. Một giải pháp cho in offset là sử dụng một tấm cao su chịu nén thay vì tấm cao su thường. Tuy nhiên sự thay thế này có thể không thoả mãn khi in các khối màu lớn chẳng hạn như khi các nhãn hàng.
Áp lực in, mức độ nạp mực và những yếu tố khác nên được điều chỉnh để giảm thiểu hay loại trừ độ gai, kéo dịch và đúp nét. Nên xem sự gia tăng tầng thứ như một lỗi cần sửa chữa, nhưng đúng hơn là một đặc tính của mực, chất liệu in, bản kẽm, tấm phủ và máy in đang được sử dụng. Khi sự gia tăng tầng thứ trở nên ổn định ta xác định đặc tính của nó và bù trừ trong quá trình chế bản. Nghĩa là nếu một máy in tạo một điểm tram 50% trên phim thành một điểm tram 60% trên tờ in thị các phim sau có thể được điều chỉnh để chúng có giá trị điểm tram thấp hơn 10% tại điểm đó. Thang kiểm tra tầng thứ Wedge của GATF được chế tạo để giúp mô tả độ lệch tông trên máy in.
Bạn đọc có thể xem Bài viết đầu tiên ở đây!
Nguồn: Book Ly Thuyet Mau – 2017 – PGS-TS. Ngô Anh Tuấn